Cây Trúc là một loài thực vật đặc biệt, cổ nhân nói nó “Không cứng không mềm” không phải có cũng chẳng phải gỗ (Trong “Trúc Phả” của Tấn Đới Khải”). Nhưng theo cách phân loại thực vật của khoa học hiện đại, Trúc thuộc thực vật thân Gỗ. Từ thời cổ xưa hình tượng Trúc đã đi vào thơ phú, ca từ, giai thoại liên quan tới Trúc của các văn nhân sĩ tử trong lịch sử cũng nhiều vô kể. Đồng thời Trúc có liên hệ mật thiết với cuộc sống thường ngày của con người. Trúc có thể dùng để xây nhà, làm hàng rào, bút viết, sản xuất giấy, làm dụng cụ trong gia đình, măng tre trúc có thể dùng làm thức ăn, vườn trúc dùng để thưởng ngoạn, cho bóng mát…..
Xét từ góc độ vẻ đẹp tự nhiên Trúc có giá trị thẩm mỹ rất đặc biệt. Mảnh mai, Thanh thoát, tinh tế, tao nhã, “gặp sương tuyết không tàn lụi, trải bốn mùa luôn xanh tốt, không lộng lẫy kiều mị, nhã tục đều yêu thích”(Hoa Kính). Do đó được người ta trồng phổ biến, dùng để chơi và thưởng thức. Trong Quá Trình tiếp cận mật thiết giữa người và vật này tư duy kiểu Trung Quốc lại dần dần tạo cho Trúc rất nhiều vẻ đẹp xã hội. Người xưa ví nó với hiền nhân quân tử. Người xưa xuất phát từ tâm lúy sùng đức mộ người hiền đã gọi trúc là “Quân Tử”. Trong “Tấn Thư” có viết về một danh sĩ rất yêu Trúc: Vương Huy vô cùng yêu trúc nghe nói nhà người khác có trúc đẹp ông sẽ tới nhà người đó, đứng dưới cây trúc để ngắm và ngâm thơ, chủ nhà ra chào hỏi ông cũng không để ý. Ông chuyển nhà mới, Lập tức phải trồng trúc, người khác hỏi tại sao gấp như vậy ông nói “Há có thể một ngày thiếu trúc”. Còn đại văn hào Tô Thức thời Tống lại nói: ” Thà Cơm Không Có Thịt Không Thể Ở Không Trúc”.
Về đức hạnh quân tử và phong độ quân tử của trúc, người xưa đã khát khao thành bốn phương diện. Thứ nhất Trúc rất chắc chắn. Thứ hai Thân Trúc rất thẳng. Thứ ba trúc kiên cường. Thứ tư Ruột Trúc trống rỗng. Đương nhiên sự chắc chắn, thẳng thắn, khí tiết kiên trinh, Khiêm tốn này là đức hạnh mà ngời quân tử cần có. Những phẩm tiết cao thượng này của trúc khiến người ta thích được gần gũi với người hiền tu dưỡng bản thân để theo kịp người hiền. Bởi vậy, Người ta hay trồng trúc trước sân.
Những phẩm chất quân tử này của trúc còn được thể hiện trong tranh vẽ. Tranh cát tường dùng trúc làm đề tài đã được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống, nhưng lại không xuất hiện trong hoạt động nghi lễ như một số biểu tượng may mắn khác, mà tồn tại phổ biến trong cuộc sống thường nhật ví dụ đề tài ” Tuế Hàn Tam Hữu”.
Do những phẩm chất tốt Đạo Quân Tử phổ biến trong xã hội truyền thống Trung Quốc thường chỉ áp dụng cho Nam Giới cũng vì phong thái tự nhiên của trúc rất phù hợp với phong độ của những nhân sĩ truyền thống, trúc còn kết nối với mai, Chỉ Vợ Chồng. Như tranh cát tường “Trúc Mai Song Hỷ” (hình vẽ mai, trúc và hai con hỷ thước) dùng để chúc mừng hân nhân. Câu hối hôn nhân cũng không thể thiếu sự phối hợp Mai Trúc: “Sương Nhiễm Trúc Diệp Tàng Thanh Lũ, Lộ Trích Mai Hoa Điểm Đại Mi” (Sương Gieo Lá Trúc Ẩn Lụa Xanh, Sương Nhỏ Hoa Mai Vẽ Mày Biếc).
Trúc có nhiều loại, trong cuốn “Trúc Phả” cả Đới Khải thời Tấn có liệt kê ra sáu mươi mốt loại Trúc, tăng nhân Tán Ninh thời Tống trong cuốn “Duẩn Phả” đã liệt kê ra tám mươi lăm loại trúc, trong đó Trúc Đốm (còn gọi là Trúc Tương Phí), Trúc Từ (hay Trúc Hiếu, Trúc Tử Mẫu) đều bao hàm những ý nghĩa văn hóa nhất định. Ngoài ra có thiên trúc, nam thiên, nam thiên trúc, thường lấy ý hài âm, dùng chữ “Thiên” trong từ thiên trúc và bí ngô hoặc thêm vào hoa trường xuân thể hiện “Thiên Đường Địa Cửa” “Thiên Địa Trường Xuân” vẽ thiên trúc và linh chi thể hiện “Thiên Nhiên Như Ý”.
Trong tiếng Hán, Cây Trúc còn đồng âm với “Chúc” thể hiện ý chúc tụng. Tranh cát tường “Hoa Phong Tam Chúc” là hình vẽ trúc và hai loại hoa cả cát tường khác (Hoặc hai con chim nhỏ).
Nguyễn Viết Thắng – Anlux.vn – ST
ĐĂNG KÝ NHẬN QUÀ
Vui lòng điền chính xác email ở bên dưới để nhận thông báo bài viết mới.
thông tin của bạn được 100% bảo mật...